Luật nhà giáo: ''Đòn bẩy'' thực thi các giải pháp đột phá giáo dục và đào tạo
 
Luật Nhà giáo (Luật số 73/2025/QH15) được Quốc hội khóa XV thông qua ngày 16/6/2025, chính thức có hiệu lực từ ngày 01/01/2026 sẽ là khung pháp lý thống nhất, giữ vai trò nền tảng then chốt để triển khai nghị quyết số 71-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo.

Luật Nhà giáo gồm 9 chương, 42 điều quy định về các vấn đề hoạt động nghề nghiệp, quyền và nghĩa vụ của nhà giáo; chức danh, chuẩn nghề nghiệp nhà giáo; tuyển dụng, sử dụng nhà giáo; chính sách tiền lương, đãi ngộ đối với nhà giáo; đào tạo, bồi dưỡng và hợp tác quốc tế đối với nhà giáo; tôn vinh, khen thưởng và xử lý vi phạm đối với nhà giáo; quản lý nhà giáo.

 Trong nhiều thập niên vừa qua, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến giáo dục. Quy định về các quyền, nghĩa vụ, chính sách đãi ngộ cho nhà giáo… được đề ra ở nhiều văn bản luật và dưới luật khác nhau như Luật Giáo dục, Điều lệ trường, hướng dẫn thi/xét nâng hạng giáo viên… Tuy vậy, trong lịch sử pháp luật Việt Nam chưa từng có Bộ luật riêng dành cho nhà giáo. Việc ban hành Luật Nhà giáo là bước ngoặt đánh dấu lần đầu tiên Nhà nước hợp nhất, quy định các vấn đề liên quan đến nhà giáo một cách toàn diện, đầy đủ. Luật Nhà giáo cũng là cơ sở pháp lý để các cơ quan quản lý giáo dục tiếp tục xây dựng các quy định cụ thể, đồng bộ hoá cơ chế triển khai, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo. Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết 71-NQ/TW ngày 22/8/2025 Về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo đề ra các mục tiêu đến 2030, tầm nhìn đến 2045. Những điểm nổi bật Luật Nhà giáo đóng vai trò lớn trong thực hiện thắng lợi Nghị quyết 71-NQ/TW:

Thứ nhất, kết nối mục tiêu chính sách – công cụ thực thi

Nghị quyết 71-NQ/TW đã đề ra hiều giải pháp đổi mới mạnh mẽ thể chế, tạo cơ chế, chính sách đặc thù, vượt trội cho phát triển giáo dục và đào tạo. Nổi bật là chính sách nâng phụ cấp ưu đãi nghề đối với cơ sở giáo dục mầm non và phổ thông lên tối thiểu 70% cho giáo viên, tối thiểu 30% cho nhân viên, 100% cho giáo viên ở khu vực đặc biệt khó khăn, biên giới, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số; thu hút 2000 giảng viên có trình độ cao từ nước ngoài về công tác tại các trường đại học. Luật Nhà giáo ban hành là khung để thiết kế chi tiết thang bậc, tiêu chí và điều kiện áp dụng, đồng thời liên thông với vị trí việc làm và chuẩn nghề nghiệp, giúp các bộ, địa phương có căn cứ ban hành văn bản hướng dẫn và bố trí nguồn lực. Quy định về Chính sách tiền lương, đãi ngộ nhà giáo được quy định tại Điều 23, Điều 24, Điều 25, Điều 26, Điều 27 là cơ sở pháp lý xây dựng các quy định cụ thể chính sách thu hút nhân tài, sử dụng nhà giáo có trình độ cao hoặc trong các lĩnh vực chuyên sâu, lĩnh vực đặt thù.

Thứ hai, minh bạch hóa đánh giá và phát triển nghề nghiệp

Quan điểm chỉ đạo trong Nghị quyết 71-NQ/TW cần “kiên quyết chấn chỉnh tiêu cực trong giáo dục, coi trọng danh dự người thầy, tôn vinh người thầy trong xã hội”; tập trung xây dựng đội ngũ nhà giáo về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, làm chủ trí tuệ nhân tạo đáp ứng chuyển đổi số trong giáo dục…  Để đáp thực hiện thành công giải pháp nâng chất lượng đội ngũ thông qua chuẩn hóa và bồi dưỡng, Luật Nhà giáo chương III quy định về chức danh, chuẩn nghề nghiệp nhà giáo (điều 12, điều 13), từ đó nhà giáo sử dụng chuẩn nghề nghiệp để tự đánh giá phẩm chất năng lực. Các cơ sở giáo dục sử dụng giáo viên cũng có thể chuyển từ đánh giá định tính sáng đánh giá theo năng lực, kiểm định chất lượng. Người đứng đầu cơ sở giáo dục thực hiện việc tuyển dụng chủ động, nhanh chóng, đáp ứng đúng nhu cầu đơn vị. Thực tế mỗi cơ sở đánh giá nhà giáo ở những thời điểm khác nhau, áp dụng các văn bản không thống nhất. Quy định về đánh giá nhà giáo (Điều 22) bắt buộc các co sỏ giáo dục đánh giá theo quy trình, thời điểm rõ ràng, gắn đánh giá nhà giáo với đánh giá viên chức.

Thứ ba, thiết lập hành lang pháp lý cho ổn định nghề nghiệp

Nghị quyết 71-NQ/TW đưa ra giải pháp cần có “chính sách đặc thù, vượt trội cho phát triển giáo dục và đào tạo”; “nâng phụ cấp ưu đãi nghề đối với cơ sở giáo dục mầm non và phổ thông lên tối thiểu 70% cho giáo viên, tối thiểu 30% cho nhân viên, 100% cho giáo viên ở khu vực đặc biệt khó khăn, biên giới, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số”. Đây là mức ưu đãi cao chưa từng có trong các chính sách cho nhà giáo. Để thực hiện đồng bộ chủ trương này, Luật Nhà giáo quy định “Lương của nhà giáo được xếp cao nhất trong hệ thống thang bậc lương hành chính sự nghiệp”, được hưởng các phụ cấp ưu đãi nghề và phụ cấp khác theo tính chất công việc (Điều 23); các chính sách hỗ trợ nhà giáo vùng điều kiện khó khăn, hỗ trợ chăm sóc sức khoẻ, đào tạo bồi dưỡng… (Điều 24); chính sách thu hút (Điều 25); chính sách nghỉ hưu (Điều 26, Điều 27).

Nhiều định hướng chiến lược, chính sách phát triển nhà giáo được chỉ đạo trong Nghị quyết 71-NQ/TW. Việc “Luật hoá” trong Luật Nhà giáo các chủ trương của Đảng và Nhà nước giúp cho nhà trường có công cụ pháp lý để quản lý, xây dựng đội ngũ nhà giáo từ tuyển dụng, sử dụng đến các chính sách về hưu. Luật Nhà giáo cũng giúp cho nhà giáo yên tâm công tác, yêu nghề hơn. Cũng trên cơ sở các quy định của pháp luật, nhà giáo cũng sẽ có kế hoạch phát triển bản thân tốt hơn.

 

Trần Thị Mỹ Bình - Khoa Chính trị & Tâm Lý giáo dục