Xây dựng nền quốc phòng toàn dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045
 
Xây dựng nền quốc phòng toàn dân là chủ trương chiến lược, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước ta trong sự nghiệp đổi mới nhằm tăng cường sức mạnh quốc phòng, khả năng phòng thủ, bảo vệ Tổ quốc trong mọi tình huống. Sau gần 40 năm đổi mới đất nước, việc xây dựng nền quốc phòng toàn dân đạt nhiều kết quả quan trọng, góp phần tăng cường sức mạnh quốc phòng cả về tiềm lực, lực lượng và thế trận, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Đại tướng Lương Cường, Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam trao quà tặng gia đình chính sách, hộ nghèo trên địa bàn tỉnh Hà Giang, tháng 1-2024_Ảnh: mod.gov.vn

Xây dựng nền quốc phòng toàn dân là quan điểm cơ bản chỉ đạo việc xây dựng nền quốc phòng của nước ta, thuộc trách nhiệm của toàn dân, của cả hệ thống chính trị, trong đó lực lượng vũ trang nhân dân là nòng cốt. Thực tiễn sự nghiệp đổi mới gần 40 năm qua cho thấy, tiềm lực của nền quốc phòng toàn dân được xây dựng khá toàn diện, lòng tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa được giữ vững, tăng cường; công tác giáo dục quốc phòng và an ninh được chú trọng; kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học - công nghệ phát triển mạnh mẽ, tạo tiền đề huy động các nguồn lực thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Lực lượng vũ trang được xây dựng vững mạnh về chính trị, sức chiến đấu ngày càng cao, từng bước tiến lên hiện đại, phát huy tốt vai trò nòng cốt trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Khu vực phòng thủ các tỉnh, thành phố được xây dựng ngày càng vững chắc; hệ thống công trình phòng thủ biển, đảo, biên giới, địa bàn chiến lược trọng yếu từng bước hoàn thiện; việc kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng, an ninh, xây dựng cơ sở chính trị được chú trọng; thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân được gắn kết khá chặt chẽ, phát huy sức mạnh tổng hợp của các lực lượng trong từng ngành, địa bàn và cả nước. Tuy nhiên vẫn còn những hạn chế, đó là: Nhận thức của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân về xây dựng nền quốc phòng toàn dân, bảo vệ Tổ quốc còn hạn chế; việc kết hợp kinh tế với quốc phòng tại các địa bàn chiến lược, biển, đảo còn có mặt chưa chặt chẽ; sự phối hợp giữa các lực lượng vũ trang trong khu vực phòng thủ có lúc, có nơi hiệu quả chưa cao; việc nắm, dự báo, xử lý tình huống về quốc phòng, an ninh ở một số địa phương, cơ sở có lúc còn bị động, bất ngờ, thậm chí có nội dung chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ.

Dự báo trong thời gian tới, tình hình an ninh, chính trị thế giới, khu vực diễn biến nhanh chóng, phức tạp, diễn biến nhanh, khó đoán định. Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, xung đột vũ trang, chiến tranh cục bộ gia tăng, khó kiểm soát. Biển Đông tiềm ẩn nhiều nguy cơ làm gia tăng xung đột. Trong nước, “Bốn nguy cơ mà Đảng ta đã từng cảnh báo vẫn còn hiện hữu, có mặt sẽ còn diễn biến phức tạp và gay gắt hơn. Những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; sự xuống cấp về các giá trị văn hóa, đạo đức, lối sống; những mâu thuẫn, bức xúc trong xã hội sẽ còn diễn biến phức tạp; phân cực giàu - nghèo có xu hướng ngày càng gia tăng”(1), nếu không được ngăn chặn, đẩy lùi, sẽ trở thành nhân tố trực tiếp đe dọa sự tồn vong của Đảng, Nhà nước và chế độ. Cùng với đó, các thế lực thù địch, phản động tiếp tục tăng cường chống phá Đảng, Nhà nước, sự nghiệp đổi mới; chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chia rẽ nhân dân với Đảng, Nhà nước, quân đội, ảnh hưởng đến sức mạnh tổng hợp của đất nước.

Để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trước bối cảnh, tình hình mới, cần tiếp tục đẩy mạnh xây dựng nền quốc phòng toàn dân theo định hướng sau:

Về mục tiêu: Phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế; không ngừng nâng cao sức mạnh phòng thủ đất nước, ngăn ngừa, phòng, chống, sẵn sàng ứng phó hiệu quả các thách thức an ninh truyền thống và an ninh phi truyền thống; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa; nền văn hóa và lợi ích quốc gia - dân tộc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước; thực hiện thành công sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Về quan điểm:

Một là, giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý, điều hành của Nhà nước đối với xây dựng nền quốc phòng toàn dân. Đây là quan điểm lớn, nhất quán, chủ đạo trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Đảng đề ra đường lối và quyết định các vấn đề liên quan đến quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Đảng lãnh đạo, đề ra chủ trương, đường lối, mục tiêu, nhiệm vụ, phương hướng và giải pháp xây dựng nền quốc phòng toàn dân, bảo vệ Tổ quốc. Nhà nước quản lý quốc phòng theo quy định của Hiến pháp và pháp luật; Nhà nước quản lý, điều hành xây dựng nền quốc phòng toàn dân đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới.

Hai là, xây dựng nền quốc phòng toàn dân toàn dân, toàn diện, độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, hiện đại, chủ động hội nhập quốc tế. Đây là quan điểm chỉ đạo xuyên suốt trong quá trình xây dựng và phát triển nền quốc phòng toàn dân. Xây dựng nền quốc phòng toàn dân toàn dân, toàn diện, độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, hiện đại, không ngừng tăng cường tiềm lực đất nước; đặc biệt coi trọng xây dựng tiềm lực chính trị, tinh thần, văn hóa; xây dựng cơ sở chính trị - xã hội; xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của đất nước; tập trung xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, nòng cốt là quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại. Phát huy mọi tiềm năng, trí tuệ sáng tạo của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân; khai thác tối đa và tận dụng có hiệu quả mọi tiềm năng lao động, thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, thành tựu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cơ sở vật chất kỹ thuật của cả nư­ớc, của quân đội; đồng thời, tranh thủ sự hợp tác của các tổ chức quốc tế, khu vực và của các n­ước; sử dụng có hiệu quả nhất mọi nguồn lực từ bên ngoài và các điều kiện quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc.

Ba là, xây dựng nền quốc phòng toàn dân bằng sức mạnh tổng hợp của đất nước, sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đây là quan điểm chỉ đạo cơ bản trong xây dựng sức mạnh tổng hợp của nền quốc phòng toàn dân, là nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Nắm vững mục tiêu phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị kết hợp với sức mạnh thời đại, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, nền văn hóa và lợi ích quốc gia - dân tộc... Xây dựng sức mạnh tổng hợp của đất nước về chính trị, tư tưởng, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại; của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, lực lượng vũ trang là nòng cốt; tăng cường tiềm lực quốc phòng, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ tăng cường quốc phòng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Bốn là, ngăn ngừa, đẩy lùi nguy cơ xung đột vũ trang và chiến tranh, sẵn sàng đánh thắng chiến tranh xâm lược, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong mọi tình huống. Đây là quan điểm chỉ đạo bảo đảm sự chủ động trong các tình huống chiến lược, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, từ khi nước chưa nguy; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước, sẵn sàng đánh thắng mọi cuộc chiến tranh xâm lược của kẻ thù. Chủ động phòng ngừa, phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị tạo sức mạnh “nội lực” bảo vệ và giữ vững bên trong là chính; chủ động, tích cực đẩy mạnh đối ngoại, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế để tạo sức mạnh “ngoại lực” bảo đảm quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Phát hiện sớm và triệt tiêu các nhân tố, nhất là các nhân tố bên trong có thể dẫn đến những đột biến bất lợi; không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống. Chủ động, tích cực ngăn ngừa và đẩy lùi nguy cơ xung đột vũ trang và chiến tranh là một trong các nhiệm vụ quốc phòng trọng yếu trong thời bình; nhằm thực hiện Chiến lược bảo vệ Tổ quốc tối ưu là bảo vệ được chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, chế độ xã hội chủ nghĩa và các lợi ích quốc gia - dân tộc. Xây dựng sức mạnh tổng hợp của nền quốc phòng toàn dân trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quân sự, quốc phòng, an ninh, đối ngoại... nhằm triệt tiêu các nguyên nhân dẫn đến xung đột vũ trang và chiến tranh; đồng thời, chuẩn bị đầy đủ về tiềm lực, lực lượng, thế trận dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước do toàn thể nhân dân thực hiện, trong đó lực lượng vũ trang làm nòng cốt. Xây dựng ngay từ thời bình, sẵn sàng chuyển thành thế trận chiến tranh nhân dân đánh thắng mọi hình thái chiến tranh của kẻ thù trong mọi tình huống.

Về nội dung:

Một là, xây dựng tiềm lực quốc phòng, tập trung vào những nội dung sau:

(i) Xây dựng tiềm lực chính trị, tinh thần. Tập trung xây dựng niềm tin và sự đồng thuận của mọi tầng lớp nhân dân với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa; xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc; tinh thần cảnh giác cách mạng; xây dựng nền văn hóa, các giá trị đạo đức; tăng cường các mối quan hệ quốc tế. Xây dựng Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị các cấp thực sự trong sạch, vững mạnh. Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục quốc phòng cho lực lượng vũ trang và toàn dân; bồi dưỡng kiến thức quốc phòng cho đội ngũ cán bộ các cấp. Giữ vững ổn định chính trị, an ninh, trật tự, an toàn xã hội; thực hiện tốt chính sách tôn giáo, dân tộc của Đảng, Nhà nước; phát huy dân chủ rộng rãi, công bằng, văn minh; tạo sự đồng thuận xã hội trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng; chủ động ngăn ngừa, phòng, chống, làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch.

(ii) Xây dựng tiềm lực kinh tế. Xây dựng tiềm lực kinh tế của nền quốc phòng toàn dân theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nâng cao hiệu quả kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường quốc phòng; kết hợp từ chiến lược đến quy hoạch, kế hoạch của quốc gia, ngành nghề, vùng, miền. Phát huy kinh tế nội lực, kinh tế số, tăng cường dự trữ cơ sở vật chất, đầu tư có trọng điểm cho quốc phòng, nhất là việc đầu tư sản xuất, mua sắm vũ khí, trang bị hiện đại cho lực lượng vũ trang. Gắn xây dựng kết cấu hạ tầng, chuyển đổi số của nền kinh tế với xây dựng hạ tầng, chuyển đổi số của nền quốc phòng toàn dân. Phát huy thế mạnh kinh tế của từng vùng, miền, địa phương và liên kết kinh tế giữa các vùng, ngành, lĩnh vực kinh tế. Phát triển kinh tế gắn với coi trọng bảo đảm an sinh xã hội, bảo vệ môi trường, phòng thủ dân sự, tăng cường củng cố quốc phòng. Nâng cao hiệu quả xây dựng các khu kinh tế - quốc phòng, xây dựng các đoàn kinh tế - quốc phòng trên một số vùng chiến lược, biên giới, biển, đảo. Phát triển công nghiệp quốc phòng chủ động, tự lực, tự cường, lưỡng dụng, hiện đại, trở thành mũi nhọn của công nghiệp quốc gia, đáp ứng yêu cầu bảo đảm vũ khí, trang bị, sản xuất được một số loại vũ khí, trang bị hiện đại, vũ khí chiến lược cho quân đội, dân quân tự vệ...

(iii) Xây dựng tiềm lực khoa học - công nghệ. Kết hợp phát triển khoa học - công nghệ quốc gia với xây dựng tiềm lực khoa học - công nghệ quốc phòng. Nghiên cứu, ứng dụng các thành tựu khoa học - công nghệ, nhất là công nghệ mới, hiện đại và công nghệ số trong sản xuất, bảo đảm vũ khí trang bị, phương tiện kỹ thuật; khoa học quân sự; nghệ thuật quân sự, tổng kết chiến tranh... Đào tạo, bồi dưỡng, trọng dụng nhân tài, sử dụng đội ngũ trí thức, cán bộ khoa học, kỹ thuật cho phát triển kinh tế và củng cố quốc phòng. Tăng cường đầu tư, hiện đại hóa kết cấu hạ tầng, cơ sở nghiên cứu khoa học - công nghệ hiện đại, lưỡng dụng, đáp ứng yêu cầu nghiên cứu, phát triển khoa học - công nghệ quân sự, quốc phòng. Mở rộng hợp tác quốc tế để tiếp thu khoa học - công nghệ tiên tiến phù hợp với điều kiện Việt Nam, đáp ứng phát triển khoa học - công nghệ quốc gia, khoa học - công nghệ quân sự, quốc phòng.

(iv) Xây dựng tiềm lực quân sự. Xây dựng quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại; lực lượng dự bị động viên hùng hậu; lực lượng dân quân tự vệ vững mạnh, rộng khắp trên các vùng, miền. Chú trọng xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao trong các lĩnh vực quân sự, quốc phòng. Gắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước với quá trình xây dựng tiềm lực quân sự; bảo đảm cơ sở vật chất kỹ thuật, vũ khí, trang bị, phương tiện cho các lực lượng vũ trang, nhất là quân đội nhân dân. Gắn xây dựng tiềm lực quân sự với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và xây dựng các tiềm lực khác bảo đảm huy động tạo thành sức mạnh quân sự, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Hai là, xây dựng lực lượng quốc phòng. Nền quốc phòng toàn dân Việt Nam dựa vào sức mạnh tổng hợp, toàn diện của quốc gia, dân tộc, nên lực lượng quốc phòng bao gồm lực lượng toàn dân và lực lượng vũ trang nhân dân. Theo đó, cần tập trung xây dựng, củng cố vững chắc hệ thống chính trị, bao gồm: Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội; trong đó trọng tâm là xây dựng và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý, điều hành của Nhà nước và chính quyền các cấp. Tăng cường giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, nâng cao nhận thức, trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi của nhân dân, của cán bộ, công chức, viên chức trong hệ thống chính trị các cấp. Xây dựng lực lượng dự bị động viên hùng hậu; xây dựng lực lượng dân quân tự vệ vững mạnh, rộng khắp trên các vùng, miền, trên biển, đảo; đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc cả trong thời bình và thời chiến.

Ba là, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc. Cần tập trung xây dựng “thế trận lòng dân” làm nền tảng gắn với xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân vững chắc thành một thể thống nhất để phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Quy hoạch, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân luôn gắn với quy hoạch tổng thể quốc gia, quy hoạch vùng và các quy hoạch khác; kết hợp chặt chẽ giữa phân vùng kinh tế với phân vùng chiến lược quốc phòng và xây dựng hậu phương chiến lược. Xây dựng thế trận phòng thủ quân khu, xây dựng các tỉnh, thành phố thành khu vực phòng thủ vững chắc. Xây dựng hệ thống chính trị các cấp vững mạnh, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân, tạo “thế trận lòng dân” vững chắc.

Bộ đội Biên phòng Trường Sa hỗ trợ ngư dân vươn khơi bám biển_Nguồn: vietnamplus.vn

Để tiếp tục xây dựng nền quốc phòng toàn dân, góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc Viêt Nam xã hội chủ nghĩa, cần tập trung thực hiện đồng bộ một số giải pháp sau:

Thứ nhất, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với quốc phòng.

Quốc phòng là lĩnh vực hoạt động liên quan trực tiếp đến sự an - nguy, thịnh - suy, mất - còn của Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa, nên cần thực hiện đúng nguyên tắc Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt, Nhà nước quản lý, điều hành tập trung, thống nhất đối với sự nghiệp quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Xây dựng thống nhất, đồng bộ cơ cấu tổ chức đảng trong lãnh đạo công tác quốc phòng từ Trung ương đến địa phương. Bổ sung các nội dung lãnh đạo về quốc phòng, cơ chế hoạt động và trách nhiệm phối hợp của từng cấp, ngành, địa phương liên quan đến hoạt động quốc phòng, đặc biệt khi xử lý các tình huống phức tạp. Nhà nước cụ thể hóa đường lối, chính sách của Đảng về quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc thành pháp luật, nghị định và tổ chức chỉ đạo thực hiện các kế hoạch về quốc phòng gắn với chương trình, kế hoạch xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội, đối ngoại. Tiếp tục hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật và giáo dục, tuyên truyền, phổ biến các văn bản quy phạm pháp luật về quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Đẩy mạnh công tác quy hoạch về quốc phòng và phổ biến tới các bộ, ngành, địa phương tạo sự thống nhất thực hiện quản lý nhà nước về quốc phòng.

Thứ hai, tăng cường giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, nâng cao ý thức trách nhiệm của toàn dân, cả hệ thống chính trị về thực hiện nhiệm vụ củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc.

Cần đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục phổ biến nâng cao nhận thức và tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, Nhà nước về quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Tăng cư­­ờng sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền, phát huy vai trò của các ban, ngành, đoàn thể, tạo sức mạnh tổng hợp và sự thống nhất, đồng bộ trong triển khai thực hiện công tác giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng. Tiếp tục đổi mới chương trình, giáo trình, tài liệu giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng phù hợp với từng đối t­­ượng, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Chú trọng kiện toàn tổ chức, nâng cao hiệu quả hoạt động của hội đồng giáo dục quốc phòng và an ninh các cấp. Phát huy tốt vai trò tham m­­ưu, tư­­­ vấn giúp các cấp ủy, chính quyền lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện công tác giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong tình hình mới.

Thứ ba, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tạo nền tảng vững chắc xây dựng “thế trận lòng dân” gắn với xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân vững chắc.

Củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tạo nền tảng xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc sẽ tạo nên sức mạnh chính trị, quân sự, quốc phòng, làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch và chiến tranh xâm lược của kẻ thù. Xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc chính là quy tụ lòng người, tạo đồng thuận, tin tưởng tuyệt đối của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa; quy tụ được lực lượng vật chất và tinh thần to lớn của nhân dân, tạo nền tảng xây dựng “thế trận lòng dân” gắn với thế trận quốc phòng toàn dân vững chắc trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân. Nhân dân là lực lượng đông đảo, được tổ chức chặt chẽ tham gia xây dựng, quản lý, bảo vệ các công trình quân sự, quốc phòng, an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội của các địa phương, trên các vùng, miền của đất nước.     

Thứ tư, kết hợp phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học - công nghệ, đối ngoại với tăng cường tiềm lực, thế trận quốc phòng.

Trong từng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học - công nghệ, đối ngoại của quốc gia, từng ngành và từng địa phương phải luôn kết hợp chặt chẽ và hiệu quả với quốc phòng, an ninh và giữa quốc phòng, an ninh với kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học - công nghệ và đối ngoại; chú trọng trên hướng chiến lược, địa bàn trọng điểm, vùng sâu, vùng xa, biên giới, biển, đảo; hình thành các khu vực chiến lược vững về chính trị, giàu về kinh tế, mạnh về quốc phòng, an ninh. Trong quá trình xây dựng và phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học - công nghệ..., việc triển khai xây dựng kết cấu hạ tầng, bố trí các công trình kinh tế, kỹ thuật, văn hóa... có quan hệ rất lớn đến thế trận quốc phòng toàn dân. Do vậy, việc quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học - công nghệ... phải luôn chú trọng kết hợp chặt chẽ với xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc; củng cố, tăng cường quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc.

Thứ năm, nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của lực lượng vũ trang nhân dân đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc cả thời bình và khi có chiến tranh.

Quán triệt và tổ chức thực hiện tốt chủ trương, đường lối của Đảng, nghị quyết của Quân ủy Trung ương, nhất là nghị quyết của Trung ương về nhiệm vụ chiến lược  bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhằm xây dựng quân đội nhân dân, công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; ưu tiên hiện đại hóa một số quân, binh chủng, lực lượng... Đến năm 2025, cơ bản xây dựng quân đội, công an tinh, gọn, mạnh, tạo tiền đề vững chắc, phấn đấu năm 2030 xây dựng quân đội nhân dân, công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, làm nòng cốt trong sự nghiệp quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Xây dựng lực lượng dự bị động viên hùng hậu, chất lượng ngày càng cao, phù hợp với khả năng của nền kinh tế và của các địa phương. Xây dựng lực lượng dân quân tự vệ vững mạnh, rộng khắp trên các vùng, miền, trên biển; nâng cao năng lực thực thi pháp luật của các lực lượng làm nhiệm vụ ở biên giới, biển, đảo. Xây dựng và phát triển công nghiệp quốc phòng chủ động, tự chủ, tự cường, lưỡng dụng và hiện đại để bảo đảm tự chủ và tăng cường vũ khí trang bị, cơ sở vật chất, kỹ thuật hiện đại cho quân đội nhân dân, dân quân tự vệ.

Thứ sáu, đẩy mạnh hoạt động đối ngoại, chủ động tạo môi trường hòa bình, ổn định và lợi thế cho xây dựng, củng cố quốc phòng.

Quán triệt và tổ chức thực hiện tốt chủ trương, đường lối đối ngoại của Đảng; phát huy hiệu quả hoạt động đối ngoại của Đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân, trong đó có đối ngoại quốc phòng. Xây dựng tiềm lực và thế trận đối ngoại gắn kết với thiết lập thế trận quốc phòng liên hoàn bên trong với bên ngoài biên giới quốc gia và trên không gian mạng. Đẩy mạnh hoạt động đối ngoại, kết hợp chặt chẽ đối ngoại với quốc phòng, an ninh và quốc phòng, an ninh với đối ngoại để thực hiện tốt phương châm chỉ đạo chiến lược “trong ấm, ngoài êm” bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa; tạo môi trường hòa bình, ổn định và thuận lợi cho công cuộc đổi mới, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, tăng cường sức mạnh quốc phòng.

Việc đề xuất định hướng về mục tiêu, quan điểm, nội dung, nhiệm vụ, giải pháp là nhằm tiếp tục nâng cao hiệu quả và hướng tới xây dựng một nền quốc phòng toàn dân vững mạnh cả về tiềm lực, lực lượng và thế trận, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn từ nay đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045./.

tapchicongsan.org.vn