TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂN TRÀO - TỈNH TUYÊN QUANG
Địa chỉ: Km 6, xã Trung Môn, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang
Điện thoại: 02073 892 012 - Email: dhtt@tqu.edu.vn
Sau 2 ngày trao đổi và thảo luận, ngày 22/7, Hội thảo quốc tế “Giáo dục đại học vì sự phát triển châu Á” đã diễn ra phiên bế mạc. Đây là hội thảo do Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng Việt Nam phối hợp với Viện Nghiên cứu phát triển Phương Đông, Trường Đại học Phú Yên và Tổ chức đối thoại châu Á (ADS) Singapore tổ chức.
Hội thảo quốc tế “Giáo dục đại học vì sự phát triển châu Á” ngày 22/7.
Ban chủ tọa gồm: Phó Giáo sư, Tiến sĩ Phan Thanh Bình - nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục của Quốc hội, hiện là Chủ tịch Hội đồng cố vấn Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng Việt Nam; Giáo sư, Tiến sĩ Trình Quang Phú - Phó Chủ tịch Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng Việt Nam, Viện trưởng Viện Nghiên cứu phát triển Phương Đông; Tiến sĩ Trần Lăng - Hiệu trưởng Trường Đại học Phú Yên; Tiến sĩ Teh Lip Li - thành viên ban lãnh đạo ADS.
4 nội dung cơ bản làm khung cho đào tạo, bồi dưỡng giảng viên đại học được khuyến nghị tại Việt Nam
Tại hội thảo, Giáo sư, Tiến sĩ Đặng Ứng Vận - hiện là Phó Chủ tịch Hội đồng cố vấn Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng Việt Nam chia sẻ ngắn gọn tham luận “Phát triển năng lực giảng viên tại các trường đại học Việt Nam”.
Giáo sư, Tiến sĩ Đặng Ứng Vận - nguyên Chánh văn phòng Hội đồng giáo dục Quốc gia, hiện là Phó Chủ tịch Hội đồng cố vấn Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng Việt Nam.
Theo đó, Giáo sư Đặng Ứng Vận đề cập: “Theo báo cáo thống kê của Cục Quản lý chất lượng Việt Nam, trong số 1.287 chương trình đào tạo đại học đã được kiểm định trong thời gian gần đây, có một tỉ lệ lớn các chương trình đào tạo không đáp ứng một số tiêu chí liên quan đến thiết kế và phát triển chương trình. Kết quả thấp nhất (78% không đạt) thuộc về Tiêu chí 3.2. “Sự đóng góp của từng môn học để đạt được kết quả học tập mong đợi là rõ ràng”; tiếp theo là Tiêu chí 5.3 “Các phương pháp đánh giá kết quả học tập đa dạng, đảm bảo tính hợp lệ, độ tin cậy và công bằng” (75% không đạt) và 2.2. “Thông tin trong mô tả khóa học là toàn diện và cập nhật" (40% không đạt).
Ngoài ra, tỉ lệ sinh viên tham gia nghiên cứu khoa học vẫn còn khá thấp ngay cả ở các trường đại học hàng đầu (dưới 10%): hoạt động “giảng dạy gắn với nghiên cứu” (RIT) chưa được giảng viên triển khai, ít có đề tài nghiên cứu khoa học về cải tiến hoạt động giảng dạy và học tập; Việc thu hút và phục vụ cộng đồng chưa được các cấp quản lý quan tâm đúng mức so với đào tạo và nghiên cứu khoa học. Những khoảng cách đó xuất phát từ nhận thức chưa đầy đủ và năng lực cá nhân chưa đủ để đáp ứng yêu cầu thay đổi để triển khai hai bộ tiêu chuẩn đánh giá chất lượng giáo dục.
Thực tiễn giảng dạy tại các trường đại học Việt Nam cho thấy, mặc dù Bộ Giáo dục và Đào tạo đã quy định bắt buộc phải có chứng chỉ sư phạm đối với giảng viên đại học, nhưng quan điểm truyền thống về phương pháp giáo dục truyền đạt vẫn còn phổ biến.
Trong khi đó, nhu cầu ngày càng tăng đối với các cơ sở giáo dục đại học trong việc điều chỉnh hoạt động giảng dạy và học tập để đào tạo ra những sinh viên tốt nghiệp có đủ kiến thức, kỹ năng, trình độ tự chủ và trách nhiệm để tự chủ trong sự nghiệp của mình.
Học tập suốt đời, khả năng thể hiện các kỹ năng tư duy cấp cao để giải quyết vô số vấn đề phức tạp nảy sinh trong các lĩnh vực nghề nghiệp, đời sống kinh tế - xã hội, cạnh tranh toàn cầu về chất lượng giáo dục là những mục tiêu khó đạt được với các phương pháp dạy và học thông thường hiện nay.
Dựa trên kinh nghiệm kiểm định chất lượng các chương trình đào tạo của Việt Nam trong 5 năm qua, đánh giá phê bình các văn bản cơ bản liên quan đến giảng dạy hiệu quả và các luận cứ triết học để lựa chọn triết lý giảng dạy, một khuôn khổ đổi mới giảng dạy đại học được đề xuất triển khai tại Việt Nam bao gồm 4 khuyến nghị: Cần thay đổi cách tiếp cận giảng dạy đại học; Định hướng cho quá trình giảng dạy đại học với sự hiểu biết rõ ràng về vai trò của giảng viên và người học; Suy ngẫm về triết lý giảng dạy của giảng viên làm cơ sở cho các hoạt động đổi mới dạy và học và; Phát triển năng lực giảng viên đáp ứng nhu cầu đổi mới”.
Trong khuôn khổ hội thảo, Giáo sư Đặng Ứng Vận đã trình bày nội dung về phát triển năng lực giảng viên đáp ứng nhu cầu đổi mới, bao gồm 4 nội dung: Thứ nhất, có sự hiểu biết đầy đủ về năng lực, nhiệm vụ của giảng viên và các chiều hướng phát triển của nhiệm vụ của họ. Thứ hai là tích hợp nghiên cứu và giảng dạy để nâng cao chất lượng đầu ra và nâng cao khả năng có việc làm của sinh viên tốt nghiệp. Thứ ba là thực hiện sứ mệnh thứ ba của trường đại học: tham gia vào các hoạt động dịch vụ và phục vụ cộng đồng. Và cuối cùng, như một sự định hướng cho tất cả các hiểu biết trên, nhu cầu xây dựng triết lý dạy học chi phối hoạt động chuyên môn của họ, định hình niềm tin, giá trị và thái độ mà họ thể hiện với tư cách là một giáo viên đại học.
Ông Johnson Paul - Giám đốc điều hành của ADS trình bày bài tham luận “Ứng dụng Coaching trong giáo dục” (thay Tiến sĩ Eugene Seah).
Giá trị số hóa trong giáo dục của Việt Nam còn khiêm tốn, chưa xứng tầm với quy mô và hệ thống
Tiến sĩ Vũ Tuấn Anh - Giám đốc Trung tâm tư Nghiên cứu, Tư vấn Kinh tế và Kinh doanh (Trường Đại học Kinh tế Quốc dân) chia sẻ tham luận “Thúc đẩy kinh tế số và xã hội số trong giáo dục Việt Nam”.
Tiến sĩ Vũ Tuấn Anh - Giám đốc Trung tâm tư Nghiên cứu, Tư vấn Kinh tế và Kinh doanh (Trường Đại học Kinh tế Quốc dân).
Tiến sĩ Vũ Tuấn Anh cho biết, theo Statista, thị trường giáo dục trực tuyến của Việt Nam dự báo sẽ đạt 364,7 triệu USD cho năm 2024 và tốc độ tăng trưởng của thị trường này giai đoạn 2024-2029 sẽ đạt 11.46%. Con số này cho thấy thị trường giáo dục trực tuyến của Việt Nam còn rất khiêm tốn và có tốc độ tăng trưởng thấp hơn nhiều so với tốc độ tăng trưởng chung của toàn cầu (tốc độ tăng trung bình giai đoạn 2023-2032 là 28,5%). Giáo dục trực tuyến là một trong những lĩnh vực được thúc đẩy phát triển mạnh mẽ một cách không mong muốn từ sự ảnh hưởng của đại dịch Covid-19.
Tính đến năm 2022, Việt Nam có gần 4.000 cơ sở giáo dục ngoài công lập và đã thu hút được hơn 600 dự án giáo dục có vốn nước ngoài đầu tư nước ngoài đăng ký hoạt động tại Việt Nam.
Doanh thu tạo ra từ học trực tuyến liên tục tăng và tăng mạnh trong thời gian qua, từ 116,36 triệu USD năm 2017 tới 328,25 triệu USD năm 2023.
Mặc dù vậy, giá trị kinh tế số trong giáo dục còn rất khiêm tốn, chỉ chiếm khoảng 0,08% GDP của cả nước. Doanh thu từ giáo dục trực tuyến tập trung vào các thành phố lớn bao gồm Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, nhưng những con số này đều cho thấy phát triển giáo dục trực tuyến còn nhiều dư địa để phát triển trong thời gian tới.
Hoạt động số hóa trong hoạt động giảng dạy: Hoạt động đào tạo từ xa tại Việt Nam từ năm 2020 trở lại đây đã có những thay đổi theo hướng tích cực, đặc biệt là từ khi Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Thông tư 27/2019/TT-BGDĐT quy định nội dung chính ghi trên văn bằng và phụ lục văn bằng giáo dục đại học. Số lượng sinh viên đăng ký học theo hệ từ xa đã gia tăng đáng kể và tạo nguồn thu tốt cho nhiều cơ sở giáo dục đào tạo uy tín trên cả nước.
Nhằm có sự thống nhất trong quản lý, vận hành hệ thống công nghệ thông tin trong các chương trình đào tạo trực tuyến, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Thông tư số 30/2023/TT-BGDĐT ngày 29/12/2023 về Quy định về ứng dụng công nghệ thông tin trong đào tạo trực tuyến đối với giáo dục đại học.
Các hình thức bồi dưỡng kiến thức trực tuyến chưa được khai thác một cách triệt để trong các cơ sở giáo dục và đào tạo tại Việt Nam. Thị trường giáo dục châu Á thiên về đầu tư mạnh vào lĩnh vực hoạt động gia sư, hỗ trợ người học. Trong khi đó, thị trường của Mỹ thiên đầu tư vào mảng bồi dưỡng kiến thức cho doanh nghiệp. Thị trường công nghệ giáo dục của Việt Nam đã có những bước đi chậm chạp ban đầu nhưng cũng thể hiện rõ tiềm năng và đang tiếp tục nhận được sự quan tâm từ các nhà đầu tư nước ngoài đến từ Hàn Quốc, Singapore, Úc, Ấn Độ, Nhật Bản, và Phần Lan.
Hoạt động số hóa trong giáo dục là xu hướng và đem lại nhiều lợi ích cho người học, nghiên cứu đã chỉ ra mối liên hệ chặt chẽ giữa người học có thành tích cao và năng lực sử dụng công nghệ.
Hoạt động số hóa trong dịch vụ thư viện: Sự phát triển của công nghệ số đã thay đổi căn bản cách con người tương tác, truyền đạt và nhận thông tin. Thư viện số ngày nay đã vượt xa tầm hoạt động của một thư viện truyền thống, nơi bị giới hạn bởi vị trí địa lý và những cuốn sách in.
Một số cơ sở giáo dục lớn đã trích từ nguồn thu để chi trả cho quyền được truy cập vào một số cơ sở dữ liệu tạp chí chuyên ngành có liên quan, tuy nhiên mức độ tham gia chưa đầy đủ. Nhiều trường, nguồn thu không đủ nên hoạt động này còn chưa được thực hiện, đây cũng là sự thiệt thòi trong tiếp cận thông tin.
Giá trị gia tăng của hoạt động số hóa giáo dục: Sự gia tăng của các dự án khởi nghiệp công nghệ trong lĩnh vực giáo dục được thống kê tăng mạnh từ năm 2018 cho tới nay. Năm 2023, đầu tư cho công nghệ giáo dục đạt 67 triệu đô la Mỹ tăng hơn gấp 2 lần so với năm 2022.
Rào cản của hoạt động số hóa giáo dục: Một trong những rào cản lớn nhất trong số hóa giáo dục đó là khoảng cách kỹ năng số trong xã hội. Khoảng cách giữa việc sử dụng các phần mềm và năng lực số trong các quốc gia kém phát triển và đang phát triển được cho là một trong những rào cản lớn nhất.
Số hóa trong xã hội có thể tạo ra sự bất công bằng trong xã hội theo cách mà chỉ những cá nhân có tài chính mới có thể tiếp cận được những công nghệ số, và những công nghệ số này là một trong những nhân tố tạo nên năng lực cạnh tranh trong thị trường lao động.
Một vấn đề khác là khía cạnh tiêu cực của môi trường số tác động xấu đến quá trình giáo dục con người.
Ngoài những vấn đề trên, vấn đề liên quan đến bản quyền cần phải được xem xét thấu đáo, và phải có cơ chế bảo hộ thật tốt, tránh bị xâm phạm, giả mạo hay xuyên tạc.
Giải pháp tăng giá trị gia tăng hoạt động số hóa trong giáo dục: Tăng cường số hóa học liệu có chất lượng có độ tin cậy cao là một việc làm cần thiết và cấp bách, giúp tạo môi trường số cho người dân được hưởng lợi từ những nguồn tri thức này. Để công tác số hóa các học liệu được phát triển, thì vấn đề bảo hộ quyền tác giả phải được thực hiện một cách nghiêm túc, bài bản và cần được thực thi một cách chặt chẽ.
Tăng cường sử dụng điện toán đám mây trong lưu trữ và vận hành các hoạt động của tổ chức giáo dục, đào tạo giúp cải thiện công tác lưu trữ và tăng cường sự chia sẻ tri thức trực tuyến giúp hệ thống được vận hành một cách hiệu quả và tối ưu. Việc sử dụng dịch vụ điện toán đám mây cũng sẽ làm cho công tác bảo mật dữ liệu được đảm bảo hơn.
Đẩy mạnh các loại hình đào tạo trực tuyến, đặc biệt là phát triển loại hình đào tạo theo các modul phục vụ nhu cầu của người học. Hệ thống trợ giảng cũng cần được phát triển để hỗ trợ người học khi có nhu cầu. Cần có cơ chế khuyến khích các trường, các viện nghiên cứu và các doanh nghiệp khởi nghiệp thực hiện đầu tư vào lĩnh vực này mạnh mẽ hơn nữa. Từng bước nghiên cứu đẩy mạnh hoạt động ứng dụng AI vào giảng dạy
Khuyến khích thư viện cung cấp dịch vụ đọc trực tuyến, và tạo cơ chế thu chi hợp lý để thư viện có thể cung cấp dịch vụ tốt nhất đến người đọc.
Cũng tại hội thảo, Tiến sĩ Nguyễn Thành Quang - nguyên Bí thư Tỉnh ủy, nguyên Trưởng đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Phú Yên, Ủy viên Hội đồng khoa học, Viện Nghiên cứu phát triển Phương Đông cũng chia sẻ: “Nếu các trường đại học không có đổi mới gì, tiếp tục hoạt động theo mô típ Nhà nước bao cấp hoàn toàn thì không thể “sống sót”. Bởi vậy, tạo cơ chế tự chủ cho các trường đại học, điều hết sức đúng đắn, phù hợp với yêu cầu xã hội. Từ đó, đòi hỏi các cơ sở giáo dục đại học phải nâng cao chất lượng. Hiện nay, có một thực tế đau lòng là vẫn còn nhiều cử nhân không có việc làm”.
Tiến sĩ Nguyễn Thành Quang - nguyên Bí thư Tỉnh ủy, nguyên Trưởng đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Phú Yên, Ủy viên Hội đồng khoa học, Viện Nghiên cứu phát triển Phương Đông có nhiều trăn trở với giáo dục đại học.
Theo Tiến sĩ Nguyễn Thành Quang, có 3 nhóm công việc mà chính quyền địa phương phải tham gia:
Thứ nhất, về thể chế chính sách, địa phương phải thu hút, phải có sự phối hợp giữa cơ sở đào tạo và nơi sử dụng lao động. Nếu không xây dựng được hành lang pháp lý thì rất khó phát triển.
Về thực hiện tự chủ, thời gian qua vẫn còn hàng loạt các trường đại học chưa triển khai được và chưa triển khai tốt. Do đó, kiến nghị Chính phủ, Bộ Giáo dục và Đào tạo chỉ đạo làm “mô hình điểm” về tự chủ đại học, qua đó, chỉ rõ cái đúng, cái sai, vì nếu không, sẽ có nhiều nhà trường không dám làm. Bởi, điều này có hai mặt, một mặt rất năng động, sáng tạo, nhưng mặt còn lại thì e dè, vì nếu không thích lại thành cố ý làm sai. Nên các cấp lãnh đạo cần có chính sách thúc đẩy được việc này.
Thứ hai, cơ sở hạ tầng phải được phát triển phù hợp, hạ tầng giao thông, thông tin, kỹ thuật số, cho phù hợp với sự phát triển của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Thứ ba, đối với việc tuyển chọn cán bộ, công chức, viên chức, người lao động, phải tạo sự đồng bộ giữa đào tạo và thu hút nhân tài. Như vậy mới phát triển được mục tiêu đào tạo nhân lực trong một hệ thống giáo dục.
Sẽ tổ chức thêm hội thảo về tự chủ đại học
Sau khi lắng nghe các ý kiến phát biểu và trao đổi của các diễn giả và đại biểu tại hội thảo, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Phan Thanh Bình - nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục của Quốc hội, hiện là Chủ tịch Hội đồng cố vấn Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng Việt Nam chia sẻ: “Tôi xin trình bày số ý kiến đã thu hoạch được, hy vọng điều này sẽ giúp các đại biểu có thể thực hiện tốt hơn trong công tác giáo dục đại học, hoặc giúp ban tổ chức đúc kết lại một số nội dung quan trọng để gửi tới các cấp quản lý”.
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Phan Thanh Bình - nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục của Quốc hội, hiện là Chủ tịch Hội đồng cố vấn Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng Việt Nam.
Theo Phó Giáo sư, Tiến sĩ Phan Thanh Bình, có 3 vấn đề lớn:
Vấn đề thứ nhất là nhận định về tình hình châu Á: Cùng với thế giới, hiện nay, châu Á đứng trước 3 vấn đề: toàn cầu hóa, phát triển công nghệ như vũ bão và biến đổi khí hậu.
Chắc chắn rằng, châu Á sẽ đóng góp rất quan trọng vào sự phát triển của thế giới. Và tại hội thảo này, nhấn mạnh rằng Đông Nam Á là vùng đất rất năng động, có tác động nhất định đến sự phát triển của châu Á. Trong đó, “vốn” rất quý của chúng ta chính là nguồn lực con người.
Châu Á đang vươn mình phát triển, đồng thời, đang đứng trước một bước chuyển, điểm nghẽn về phát triển nguồn lực công nghệ và kinh tế.
Khi nói đến vai trò học giáo dục đại học với phát triển của châu Á, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Phan Thanh Bình cho rằng: "Thứ nhất, giáo dục đại học là phương thức để phát triển châu Á - tôi rất thích slogan của diễn giả “New Asia - New University” (tức là châu Á mới - đại học mới), nghĩa là châu Á sẽ phát triển và vai trò của giáo dục đại học rất quan trọng sẽ nằm ở chính chỗ này. Thứ hai, môi trường xã hội sẽ biến đổi rất nhanh chóng và đòi hỏi các trường đại học, các chương trình đào tạo của giáo dục đại học cũng là hết sức linh hoạt. Thứ ba, sự cạnh tranh quốc tế. Chính sự cạnh tranh là thời cơ để các nước châu Á vươn lên.
Vấn đề thứ hai là mục tiêu của giáo dục đại học trong tương lai: "Trước hết, tôi xin cảm ơn Tiến sĩ Vũ Ngọc Hoàng đã nhắc lại trong tham luận của mình về mục tiêu cơ bản của giáo dục đại học, đó là hoàn thiện kiến thức, nhân cách, nhân bản; năng lực làm việc tại doanh nghiệp; đẩy mạnh nghiên cứu khoa học và đổi mới sáng tạo.
Một ý nữa, giáo dục phải được cung cấp có mục đích phát triển đầy đủ tính cách cá nhân vì chúng ta nỗ lực sự nuôi dưỡng dân tộc khỏe mạnh về tinh thần, thể chất và thẩm thấu những phẩm chất cần thiết ở những con người tạo nên quốc gia bình đẳng, dân chủ", thầy Bình nói.
Thông qua hội thảo, Phó Giáo sư Phan Thanh Bình cũng đã đặt ra những vấn đề chúng ta cần suy nghĩ. Đó là vấn đề về phát triển bền vững và giáo dục đại học phải tiến tới. Ở đây, nói về phát triển ở cấp độ con người và phát triển nhân văn, khi công nghệ, trí tuệ nhân tạo AI, robotics, chuyển đổi số phát triển rất nhanh, thì phần con người, phần nhân bản của chúng ta ở đâu... Sau lưng những vấn đề này chính là sự xung đột giữa sự phát triển của khoa học công nghệ và đạo đức của con người.
Bên cạnh đó, thế giới cần một trật tự văn minh mới, không phải trật tự chính trị, hay kinh tế, mà là trật tự về văn minh mới, định nghĩa mới về tiến bộ được nhìn nhận với một khái niệm nhân văn mới.
Ngoài ra, từ toàn cầu hóa và sự phát triển rất nhanh của công nghệ, đi đến một sự đa dạng về văn hóa, hòa bình thế giới.
Vấn đề giới, vai trò và đóng góp của phụ nữ trong sự phát triển.
Cuối cùng là Edtech - công nghệ giáo dục chắc chắn sẽ tác động rất mạnh mẽ đến sự phát triển trong thời gian tới.
Cạnh đó, là vấn đề nâng cao, tích lũy năng lực sáng tạo của người học, phục vụ hiệu quả cho phát triển kinh tế và hội nhập.
“Vốn” tốt nhất của châu Á là nhân lực, vậy bây giờ phải phát triển và quản lý nguồn nhân lực như thế nào? Và phải tính đến hiệu quả, tỉ suất lợi nhuận trên cơ sở đào tạo một người lao động. Tức là phát triển nguồn nhân lực, quản lý nguồn nhân lực trên sự tác động vào phát triển và tiến bộ xã hội...
Một vấn đề nữa được đề cập đến trong hội thảo là Coaching (tạm dịch là huấn luyện), đây là vấn đề gần đây, tôi đánh giá rất cao. Trong trường thì dạy lý thuật, kiến thức, cơ sở lý luận, nhưng trong thực tiễn cuộc sống như thế nào, cần phải có huấn luyện. Đó là là sự tiếp nối và phát triển, chứ không chỉ là dạy và chấm điểm vào cuối chương trình.
"Ngoài ra, tôi rất thích thú với một đề xuất của giáo sư ở Đại học Quốc gia Singapore, chia sẻ về vấn đề mô hình trường đại học trong tương lai, khi thành lập các thành phố vừa phải, khoảng 100.000 dân, trong đó, đại học phải tác động, lan tỏa kiến thức, đưa kiến thức gần hơn với người dân, không chỉ là bậc cao, để toàn thành phố phát triển bền vững. Vai trò của các trường đại học này gần giống như đại học cộng đồng", Phó Giáo sư Phan Thanh Bình chia sẻ.
Phó Giáo sư Phan Thanh Bình cũng đề cập đến vấn đề thứ ba - những vấn đề rất cổ điển, rất cơ bản của giáo dục đại học: “Tự chủ đại học - tôi nhìn nhận rất đơn giản là các cơ sở giáo dục đại học được giải phóng năng lượng. Tự chủ là giải phóng tư duy của chính các thầy cô và trao truyền sự đổi mới ấy cho sinh viên.
Riêng về tự chủ đại học, mỗi trường có một nhận thức và thực hiện khác nhau, và đối với riêng mỗi trường, thì quản lý của các cấp lãnh đạo cũng khác nhau, quản trung ương khác quản lý và địa phương khác, quản lý cơ sở và thầy cô cũng khác, xã hội cũng nhìn nhận khác...
Về thể chế và hệ thống pháp luật cần làm rõ, đối với một cơ sở giáo dục đại học, trách nhiệm của Nhà nước như thế nào, trách nhiệm xã hội như thế nào, chứ không phải là xã hội hóa hay tự chủ đại học thì áp lên chi phí đào tạo. Tức là không phải khi sinh viên đóng học phí, bù đắp chi phí tự chủ, thì Nhà nước lại “cắt” kinh phí hỗ trợ.
Về đội ngũ giáo viên, đặc biệt là giáo viên trong giai đoạn mới.
Về chương trình và phương thức giảng dạy đại học.
Về mạng lưới quy hoạch giáo dục đại học, nhìn nhận lại theo góc nhìn mới về các thành phố và vai trò của đại học trong thành phố.
Còn về nguồn lực tài chính, nêu rất rõ: Nguồn lực tài chính góc độ phát triển bền vững hệ thống giáo dục đại học.
Và cuối cùng, còn sinh viên tốt nghiệp đại học không có việc làm, đôi khi điều này không dừng lại ở vấn đề của giáo dục đào tạo nhân lực, bởi nếu tốc độ phát triển kinh tế tăng thêm 1-2%, thì số việc làm đòi hỏi sẽ tăng lên, và lúc đó là việc làm sẽ nở ra. Còn nếu kinh tế cứ ì ạch, thậm chí tụt xuống, thì việc làm cũng sẽ giảm theo...”.
Giáo sư, Tiến sĩ Trình Quang Phú - Phó Chủ tịch Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng Việt Nam, Viện trưởng Viện Nghiên cứu phát triển Phương Đông phát biểu bế mạc hội thảo.
Phát biểu bế mạc hội thảo, Giáo sư, Tiến sĩ Trình Quang Phú - Phó Chủ tịch Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng Việt Nam, Viện trưởng Viện Nghiên cứu phát triển Phương Đông cho biết: “Hội thảo đã có rất nhiều ý kiến dù ở góc độ, cấp độ khác nhau, nhưng chúng ta đều thống nhất rằng, châu Á, đặc biệt là Đông Nam Á đang bước vào thời kỳ phát triển. Thế kỷ 21 là thế kỷ, kinh tế châu Á sẽ phát triển, vì vậy, trách nhiệm của giáo dục đại học là phải có đội ngũ con người đáp ứng điều đó.
Chính vì vậy, khi hội thảo “Giáo dục đại học vì sự phát triển châu Á” kết thúc cũng là khai mở cho một chương trình mới, chúng ta phải tiếp tục nghiên cứu, làm thế nào để có đội ngũ nhân lực cho Việt Nam, cho Đông Nam Á và châu Á.
Tôi cho rằng, để có đội ngũ nhân lực đáp ứng yêu cầu được nêu ra, phải có sự thống nhất, đồng bộ của cả hệ thống chính trị Việt Nam, có sự liên kết giữa các nước trong khối, các nước trong khu vực. Với Việt Nam, tôi cho rằng, mấu chốt nhất vẫn là tự chủ đại học. Không có tự chủ, không có xác lập, và như một chuyên gia có nói, không có tự chủ thì đại học chỉ như “cấp 4”. Vậy nên, tới đây, chúng tôi sẽ tiếp tục tổ chức một hội thảo về tự chủ đại học”.